Trang

Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2016

BÀNG LA VÀ NHỮNG SẢN VẬT

Quê tôi bên bờ biển, từ ngàn đời xưa chỉ biết làm muối, những hạt muối trắng mặn mòi vị biển khơi, thấm đẫm mồ hôi của bao thế hệ người Bàng La.
Làm muối ở quê tôi vất vả lắm, do nước biển độ mặn không cao (không phơi trực tiếp nước biển lấy muối được), nên muốn làm được hạt muối phải qua rất nhiều công đoạn... phải phơi cát trên nắng, để cát cô đọng tinh muối, rồi phải lọc cát lấy nước gọi là nước cái... rồi phơi nước cái để lấy muối, vì vậy muối gắn với cát ... như đất với cây vậy... . Quê tôi, cát gắn với từng kiếp người, từng kiếp người phơi nắng quắt queo, mặn mòi, lam lũ...
“ Đời Cha cho chí đời Ông
Có một đống cát, xe ra xe vào”
Rồi thời kỳ đổi mới như một luồng gió mạnh (có cả gió độc và gió lành) thổi vào làng quê, làm thay đổi bộ mặt của vùng đất chỉ có cát và muối. Đầu tiên người quê đào ao, quây đầm thả cua; và cua Bàng La cũng nổi tiếng khắp nơi; cua thành đặc sản; cua đi Trung Quốc; cua vào Thành Phố; cua thành sản vật là quà hiến tặng, thăm thân... . Tiểu thương ở nhiều nơi buôn của nơi khác nhưng cũng cứ gắn thương hiệu của Bàng Là để buôn may, bán đắt.
Vài năm sau do không có quy hoạch, nguồn nước ô nhiễm, con giống khan hiếm dần, cua Bàng La ngày càng khó nuôi (giờ tôi về quê muốn ăn cua cũng khó). Dân quê cũng nhanh đổi mới, người người lại xoay qua nuôi cá vược, nuôi quãng canh tôm sú... . Một số thấy nuôi thủy sản khó kiếm ăn quá, họ lấp đầm ao, trồng cà chua, trồng táo.
Cà chua Bàng La cũng có thể là số một về cả mẫu mã và chất lượng, quả cà đều đều, hồng tím, nhiều bột, chua dịu, thanh mát. Cà được trồng gần như tự nhiên, không có tác động của hóa chất độc hại, khi thu hoạch có thể hái quả cà ăn sống tại vườn. Vào mùa cà Làng Bàng trên cà, dưới cà, cà được giá tiểu thương thu mua tại vườn đưa đi khắp nơi, Cà Bàng có mặt ở Móng Cái, Hà Nội, Hải Phòng...
Nhưng chất nhất phải nói đến là táo Bàng La, cái tinh túy của miền đất quê mặn mòi, nhiều nắng, nhiều gió bão, thấm đẫm mồ hôi của bao kiếp người, cô đọng trong quả Táo Bàng. Táo Bàng màu vàng xanh, dòn, thơm, ngọt, mát, đúng như câu các cụ thường nói “ngọt như đường cát, mát như đường phèn”. Táo Bàng mấy năm nay được giá, một sào táo thu được đến vài chục triệu đồng nên có rất nhiều vườn trồng táo., dù trồng nhiều nhưng đến mùa vẫn không có táo mà bán, tiểu thương đặt mua cả vườn từ đầu mùa hoặc đặt mua trước từng ngày... . Táo Bàng ngon có thể là do chất đất (đất cát pha đất thịt), do chất nước (nước lợ), nhưng quan trọng nhất vẫn là công chăm bón của con người, cũng là Táo Bàng nhưng  ở Khu Tư (Xóm Sáu, Điện Biên...) táo ngon hơn.
Mấy năm nay vì việc nhà, việc họ, tôi thường về quê nhiều vào dịp cuối năm, mỗi lần về đều ngợp trong tình quê ấm áp, êm đềm. Để rồi khi đi cái con cá, con cua, quả táo, quả cà...cứ bịn rịn như tình quê từ thưở trong nôi./.

Thứ Năm, 17 tháng 9, 2015

MẮM TÔM BÀNG LA


Hàng năm cứ mỗi độ thu về, mùa quả thị thơm vàng, mùa mưa ngâu với những cơn mưa rả rích, như nước mắt của đôi uyên ương trong ngày tái ngộ, khóc thương cho duyên tình suốt đêm thâu. Qua ngâu cũng là mùa làm mắm tôm của người Bàng La. 
Vào mùa mắm tôm, đi khắp làng Bàng đâu đâu cũng ngửi thấy mùi mắm, cái mùi đặc trưng, riêng biệt chỉ có ở mắm tôm, chút hanh heo của thu, chút thê lương của ngâu, chút thơm của hương bòng, hương bưởi;cái khen khét của mùi mồ hôi, cái tanh khẳn của kiếp con tôm, con tép; cái thăm thẳm của đại dương. Ngửi mùi mắm, như thấy dáng mẹ già liêu xiêu trong bập bùng mưa gió, như thấy dáng cha gầy đen đang xe cát trên đồng muối quê, như thấy ì oạp tiếng sóng vỗ mạn thuyền, những cánh buồm nâu no gió, trôi trong sương trắng … bồng bềnh… bồng bềnh…
Bà Còng đi chợ trời mưa
Cái Tôm, cái Tép đi sau lưng bà
Tiền bà trong túi rơi ra
Tép, Tôm nhặt được trả bà mua rau…
Cái tôm, cái tép đầy tình, đầy nghĩa ấy, một kiếp ngắn ngủi, long đong trong lòng biển, để rồi hóa thân thành mắm tôm, một sản vật chỉ có ở làng quê Việt. Mắm tôm ở mỗi nơi đều có một đặc trưng riêng, Bàng La có nhiều loại mắm tôm, mắm tôm khô, mắm tôm loãng, mắm tôm cháo… . Gọi là mắm tôm nhưng lại thường được làm từ con moi [1] và muối. Con moi chủ yếu được đánh bắt bằng nghề lưới săm, nghề đáy, te quai… trên vùng biển gần bờ, nhất là ở các cửa sông. Cứ 10 kg moi thì trộn đều với  khoảng 1,5 kg muối rồi ủ trong bể [2], làm ít thì ủ trong chum hoặc trong vại . Người Bàng làm mắm tôm kỹ lắm, khi đã ủ moi được ít ngày, moi được đổ từng mẻ vào rổ thồng [3], đặt trên một cái chậu, rồi dùng miếng gỗ hoặc một miếng gốc tre già vừa tay cầm [4], mài cho con moi nhuyễn ra, rơi hết xuống chậu, sau đó mang đi phơi nắng. Khi mắm chín thơm, không còn mùi tanh khẳn là được, mắm đó gọi là mắm cháo, loại mắm này rất hợp với thịt cầy, người Bàng thường dùng mắm tôm này chở bằng thuyền nan lên các vùng quanh khu Sông Hương, Chợ Hệ [5]… bán hoặc đổi lấy thóc, hoa quả... . Mắm tôm khô thì cũng là thứ mắm đó, được phơi kỹ rồi bỏ vào các rổ thồng, có lót vải màn, để trên một cái chậu, sau nhiều ngày nước mắm tôm nhỏ xuống chậu, nước này gọi là nước mắm chắt, phần còn lại gọi là mắm tôm khô, mắm tôm khô càng để lâu càng ngon, nhưng lâu lâu phải mang ra phơi nắng, không nó có mùi rất khó chịu, mắm tôm khô thường được bán lên miền ngược [6]. Nước mắm chắt là loại nước mắm ngon, hiếm, ít bán ra thị trường. Đó là hai loại mắm tôm thường, người Bàng làm ra chủ yếu để buôn bán, tuy rằng nó đã rất ngon, nhưng nói đến mắm tôm Bàng là phải nói đến mắm tôm loãng, mắm tôm loãng mỗi nhà chỉ làm một vài vại nhỏ, để dùng ăn quanh năm hoặc làm quà cho con, cho cháu… . Mắm loãng Bàng La cũng làm bằng con moi hoặc bằng con tôm vàng loại nhỏ[7]. Sau khi ủ tôm, moi với muối vài ba ngày, người ta dùng tay nắm, vắt cái ra cái [8], nước ra nước, cái và nước đều được mang ra phơi nắng. Khi cái khô cho vào cối đá giã nhỏ, mịn rồi trộn vào nước, đánh đều rồi tiếp tục phơi nắng. Được nắng khoảng mươi hôm thì mắm chín, khi đó mắm có màu đỏ thắm như son và mùi thơm đặc trưng rất khó tả. Mắm loãng Bàng La là đồ ăn kèm dành cho đủ loại thức ăn và đủ hạng người, người có thì ăn với thịt ba chỉ, dồi lợn luộc [9], người nghèo khó thì ăn với đậu phụ nướng, đậu phụ luộc, ăn với thức gì cũng ngon, chỉ cần chút mắm tôm vắt ít nước chanh vào, rồi đánh tan ra, thêm lát ớt là được. Có khi chỉ đặt xoong lên bếp, phi thơm hành mỡ, cho mắm tôm vào rồi ăn với cơm, thì đúng như các cụ xưa nói “nồi tám quăng ra, nồi ba quẳng vào”. Ngày xa xưa… đói nghèo, các bá [10] tôi làm mấy cửa ruộng muối mà phải ăn bánh đúc thay cơm, khi về già bá nào cũng đòi ăn bánh đúc quyệt với mắm tôm.
Mắm tôm Bàng La mang linh hồn của biển cả, mang hình bóng quê hương trong tâm trí của bao người con xa xứ, như dáng liêu xiêu của mẹ, dáng hao gầy của cha, dáng bà Còng long cong đi chợ… có cái nắng, có cái mưa, có khói lam chiều quyện trên triền đê heo hút, à ơi tiếng mẹ ru trưa “cái ngủ, mày ngủ cho ngoan…”./.




[1] Có nơi gọi là con tép hoặc con tôm
[2] Nếu làm mắm tôm nhiều phải đựng trong bể, bể thì như cái hồ đựng nước mưa của người Miền Nam, thường được xây bằng gạch, xi măng, cát…
[3] Rổ thồng làm bằng tre, mắt thưa vừa phải người Bàng chuyên dùng đựng muối
[4] Gọi là cái mài
[5] Thuộc tỉnh Hải Dương
[6] Miền núi
[7] Ngày trước vào mùa tôm vàng ở Bàng tôm rất rẻ
[8] Xác tôm, moi
[9] Thứ mắm tôm này ăn thịt cầy không ngon
[10] Chị gái bố

Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2015

TÔI CHỮA BỆNH GUT


Khoảng chục năm về trước vào dịp nghỉ cuối tuần, tôi có một người bạn ở quê lên chơi, bạn tôi mang theo mấy con cua gạch (quà quê mà), chiều hôm đó tôi đã ăn hết cả một con khoảng nửa ký, phải nói là cua quê tôi ngon thật, vì nó quá ngon nên sáng hôm sau tôi lại ăn thêm một con nữa. Buổi tối hôm đó tôi thấy trong người có cảm giác bất an, toàn thấy cứ nặng nặng, bì bì …, nên đành đi ngủ sớm. Đang thiu thiu thì ngón giữa bàn chân phải nhói đau, sau đó từng cơn đau dồn dập, đốt khớp xương ngón chân sưng vù, đỏ tấy, cơn đau liên tục, những cú cắn giật buốt tới tận óc, lúc đó tôi nghĩ nếu chặt chân mà hết đau, tôi dám chặt ngay... Vốn cường tráng khỏe mạnh, ít bị ốm đau, nên tôi hoang mang không biết mình bị làm sao. Lúc này người gai gai sốt, chân đau vật vã, từ bé tôi chưa bao giờ bị đau như thế. Vào tối ngày nghỉ cơ quan không có người, chẳng biết gọi ai, đau quá, đau không chịu được, chỉ có ngủ mới chịu được, nghĩ thế tôi gắng dậy tìm vỉ thuốc ngủ, uống liền 2 viên, cơn đau vẫn hành hạ không thể ngủ được, tôi uống 2 viên nữa, vẫn thế, vẫn đau không ngủ được, tôi liều làm thêm 2 viên nữa thì thiếp được đi tới sáng.
Sáng dậy tôi giấu anh em đi viện 108 khám, về Hà Nội nhiều năm rồi, nhưng có phải đi viện bao giờ đâu, chân thì đau cà nhắc đi hết chỗ này, chỗ khác xét nghiệm, chụp phim, rồi lại cà nhắc về phòng kết luận ngồi chờ. Đến lượt tôi vào, chị thượng tá bác sỹ xinh xắn (không nhớ được tên chị) bắt tôi cho xem chân, hỏi han vài điều, rồi bảo tôi bị gút cấp, rối loạn lipit độ 1, dặn dò tôi những điều phải kiêng kỵ khi điều trị… Tôi xuống nhà thuốc lấy được đến cả ký thuốc tây, rồi cà nhắc ra về. Trời ạ, sao mà phải kiêng nhiều thế, tôi thuộc loại người … thích đủ thứ, kiêng thế này sao chịu nổi. Nhưng mà chân đau lắm, tuy không đau bằng tối hôm trước nhưng vẫn cứ là những cú cắn từ chân buốt thấu óc… Tôi uống thuốc tây mấy ngày thì đỡ, tôi xin nghỉ phép về nhà chữa bệnh.
Đầu tiên tôi tìm đọc tất cả các bài viết về bệnh gút trên mạng, qua đó biết được bệnh gút chữa thuốc tây không thể khỏi, phải kết hợp điều trị bằng Đông y. Cũng qua mạng tôi biết nhà thuốc của lương y NHT (gần BIC) Hải phòng có thuốc chữa gút hay, tôi vội sang khám, ông T không có nhà, có một cô khám cho tôi, rồi cắt cho 10 thang thuốc. Tôi về sắc uống, cha mẹ ơi thuốc gì mà đắng khủng khiếp, vì bệnh tôi phải cố nuốt hết 10 thang, chân nó vẫn thế, chẳng đau thêm mà cũng chẳng khỏi. Lại nghe mấy bà ở chợ nói có chị cắt thuốc Nam bên tận Sông Khoai, Quảng Yên chữa bệnh xương khớp, vợ chồng tôi hỏi thăm mãi, đi ê mông mới tới nơi, thấy nhà chẳng ra nhà, mà lều không giống lều, một điện thờ, dưới bóng một cây đề, hai gian chuồng chất củi và lá. Chị chủ có vẻ dở dở … người đen đúa, bẩn bẩn, chị ta cũng chẳng xem, chẳng khám, nghe bảo bị đau chân thì bốc cho 5 túi ni lông củi khô, lá khô, bảo cứ về sắc uống thay nước hàng ngày, khi nào hết thì sang lấy tiếp. Thôi thì vì chân đau mà phải uống, uống hết cũng chẳng thấy sao, vẫn vậy các bác ạ. Thôi đành phải nuốt thuốc tây, cứ đau là nhồi cochisin vào cho nó đỡ mà đi làm. Thời gian cứ thế trôi đi, trong vài năm tôi sống chung với gút, đau thì uống thuốc, hết đau thì lại nhậu, thi thoảng vẫn thịt cầy, thịt trâu, bia bọt, mực nướng, tôm cua…Tôi chả sợ gì cả, cũng cố giảm cân, giảm nhậu, nhưng khổ lắm … , thi thoảng lại hưởng trận đau, hết đau chân lại đau khớp, hết sưng ngón cái lại đến sưng ngón giữa, có lúc đau không bò lên được cầu thang.
Thôi thì có bệnh phải vái tứ phương, trong thời gian đó tôi uống đủ các loại thuốc, thuốc tây, thuốc Mán, thuốc Thổ, thuốc Mường…củ bình vôi, viên gút Tấm Bình, lá sa kê, củ ráy dại…cà phê, cà pháo đều đều (có tài liệu nói uống cà phê đỡ gút)…mãi rồi thành quen, chẳng quan tâm mấy đến nó nữa. Thời gian đầu cứ khoảng 1 năm thì nó lại đau lại 1 lần vào dịp đầu hè, sau đó khoảng 6 tháng 1 lần, vài năm gần đây thì thường xuyên hơn, cứ nhậu vào về là đau luôn, nó không đau như trước, nhưng cũng đủ khổ sở vì nó, thuốc tây thì chỉ giảm đau tạm thời, viên Tâm Bình thì phải dài lâu, mà uống nhiều thuốc tây lại bị đau dạ dày, một lần tôi bị đau dạ dày cấp phải đi cấp cứu… khổ lắm ai ơi…
Nhiều năm tháng dài dài tôi vẫn vậy, nhưng dần dần cũng kiêng bớt rượu, bia, ít thịt cầy, thịt cáo… thể trạng cũng giảm được chục ký, từ 84 ký xuống còn 74. Năm nào khám sức khỏe định kỳ cũng làm cái gút mãn… Tôi nghĩ chắc đời mình chả khỏi được gút, lúc bố tôi ốm rồi lúc bố mất tôi vẫn bị đau, cả trăm đường khổ. Một hôm, cũng đang trong dịp nghỉ cuối tuần, tôi đang bị đau mà có việc phải đi không thể bỏ được, tôi đành lên nhà anh y sỹ ở viện Hải quân đã nghỉ hưu ở Chợ Tổng (Lưu kiếm), nhờ anh tiêm trực tiếp vào chỗ đau (dù biết tiêm là không tốt), anh tiêm cho tôi và bảo sao để đau thế, về cứ lá vối tươi mà uống, tôi cũng chẳng để ý mấy, vì uống đủ thứ trên đời rồi có tác dụng gì đâu.
Trường vợ tôi dạy có đến mấy cây vối, người ta chặt đi chẳng hết, vợ tôi nghe nói,  lấy về cho tôi uống thử, uống nước vối tươi cũng hay hay, lại dễ làm, thế là từ đó ở cơ quan hay ở nhà, mỗi ngày tôi hãm và uống hết một bình vối tươi, cũng chẳng uống thuốc tây, thuốc ta gì nữa. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, công việc cứ cuốn đi, tôi không thấy bị đau trở lại, người thấy nhẹ nhõm, thanh thoát. Tôi cũng không dám chắc là mình đã khỏi; một hôm tôi bảo vợ đi mua thịt cầy về, tôi ăn một bữa no say, hôm sau cũng không bị đau, sau đó tôi ăn cua gạnh, ghẹ, tôm … nhiều lần, nhưng cũng không thấy đau. Lâu rồi không đau nữa, tôi cũng không đi khám lại, nhưng giờ tôi như người bình thường lại nhậu nhẹt, thịt cầy, thịt trâu, tôm cua, mực, cá đủ cả… Lại sành về các loại cây vối, quanh khu tôi ở, nhà nào có cây vối ngon tôi đều biết; cây vối ngon phải là vối kê (lá nhỏ, dầy, xanh vàng), vối thường lá to không ngon, không dùng lá vối già, lá vối ngọn vì nó quá đắng…
Tôi viết lại chuyện tôi bị gút là như thế, có thể tôi đã khỏi, nhưng thực ra cũng chẳng biết là khỏi được do loại thuốc gì, kiểu gì…vì tôi uống đủ thứ thuốc. Hiện nay tôi khỏe, ăn ngủ được. Chủ nhât này lại có hẹn với bạn đi nhậu lợn mẹt, nhậu thì … nhậu… có sao đâu./.


Thứ Hai, 3 tháng 8, 2015

DƯA KHOAI BÀNG LA

Về quê ăn cái gì cũng ngon, con cá, con tôm quê tôi ngon hơn...không phải vì tình quê, mà bởi vì con cá, con tôm vùng nước lợ bao giờ cũng ngon hơn nơi khác. Trưa hè ra góc vườn sau, hái mớ rau tập tàng nấu canh với bát tôm vàng bóc nõn giã dập,  cá đối "dót" kho khô với vỏ quả bứa, dưa khoai chấm mắm "chắt" ... thì có nóng bức mấy ...  bụng vẫn cứ no tròn.
Dưa khoai Bàng La, mà  chỉ có ở Bàng La được làm từ dọc khoai đốm, người Bàng chọn những dọc khoai bánh tẻ, chẻ nhỏ, cắt ngắn vừa ăn (bằng ngón tay), phơi héo, rồi muối trong vại sành,  như muối dưa cà, dưa cải, khi ăn trộn với riềng khô giã nhỏ. Đũa dưa khoai vàng hươm, đưa qua đầu lưỡi thấy thơm cay mùi riềng, nhột nhột, giòn giòn, dai dai, chua mát...ngậm miệng lại đưa miếng dưa như thấy cái nắng, cái mưa, cái tần tảo của người dân quê, cái cay nồng chát  mặn ... của gió bão quê nhà, tiếng vỗ về của sóng biển quyện trong câu hát mẹ ru:
 "Kéo cưa, lừa xẻ
Thợ nào khỏe thì ăn cơn dưa (quê tôi không dùng câu ăn cơm vua)
Thợ nào thua thì về bú mẹ"
Có một điều lạ là người Bàng ít trồng khoai đốm, mà chủ yếu mua từ Tú Sơn, Đại Hợp. Ngày nay dưa khoai Bàng cũng thành món quà quê, mà những người con của Bàng La xa xứ không bao giờ quên, khi về thăm quê, lúc đi ai cũng mang theo vài "đùm", như mang theo cái tình quê ấm áp, êm đềm./.

NẮNG MUỘN

Nắng muộn chiều Thu
Mây vờn trên gác tía
Gió lao xao, xào xạc lá vàng rơi
Đàn cò trắng theo mây rời tổ ấm.
Lấp lóa môi cười, mắt thắm long lanh.

Nắng muộn chiều Thu
Nắng muộn đời anh
Anh vẫn dành cho em tất cả
Này mắt, môi, này nhung nhớ yêu thương./.
                                                        Đà lạt 2007

DANG DỞ

Nắng dang dở, để mưa dông kéo tới
Sấm sét ùng oang, làm hoang nát chiều thu.
Dang dở câu thơ, làm bơ vơ con chữ...
Dang dở cuộc tình, ai khóc thương ... ai ! ./.
                           HN 14/09/2014

NẾU

Nếu !
Mùa Đông không em/
Gió !
Mưa !
... Não nề ...
... Lạnh ...
Buốt ngón tay
Môi tê tái.
Anh như con thuyền không lái
Biển chao chơi, Trời chơi vơi
Sóng cào
Gió quất tả tơi
... Ngất ngơ...
............Trôi./.
                      Hà Nội 12/11/2014